Tin tức tổng hợp
I. KHÁI NIỆM
Tổn thất là những mất mát thiệt hại của đối tượng được bảo hiểm do rủi ro được bảo hiểm gây ra
Tổn thất bao hàm một khái niệm rất rộng. Nếu phân loại chúng ta có thể phân thành các loại sau:
Tổn thất “động”: đó là tổn thất của vật thể do tác động bên ngoài gây làm giảm giá trị của vật thể. Ví dụ như tác động của khoa học kỹ thuật làm cho hàng hóa điện tử trở nên lỗi thời, hoặc sự giảm giá của hàng hóa bởi một lý do nào đó cũng được coi là tổn thất động. Các loại tổn thất động này không được bảo hiểm.
Tổn thất “tĩnh”: là những tổn thất mà chính bản thân vật thể bị hư hỏng, mất mát hay bị hủy hoại. Tổn thất này không thường được bảo hiểm. Tổn thất này có thể là:
+ Tổn thất của chính vật thể đó
+Tổn thất vì thu nhập trên vật thể đó do sự mất sử dụng gây ra.
+ Tổn thất về chi phí, ngoại tệ phát sinh từ tổn thất vật chất của vật thể đó.
+ Tổn thất trách nhiệm đối với người khác: ví dụ như hai tàu đâm va nhau, tàu A có lỗi hoàn toàn, do tàu A phải chịu trách nhiệm bồi thường cho tàu bị đâm va. Tổn thất trách nhiệm này cũng được bảo hiểm.
Chúng ta cần phân biệt rõ tổn thất (Loss) và tổn hại (Damage).
+ Tổn thất là mất mát (Loss): là một rủi ro mà mắt không thể nhìn thấy, tay không thể sờ được. Chẳng hạn khi ta giao hàng ta giao 10 kiện hàng khi về đến cảng còn 8 kiện, như vậy 2 kiện mất là tổn thất ta khong thể xác định bằng mắt hay bằng tay.
+ Tổn thất là hư hỏng, tổn hại (damage): là một rủi ro mà mắt có thể nhìn thấy, tay có thể sờ thấy được. Ví dụ như hàng hóa khi về đến cảng thì bị vỡ, bị gãy....những tổn thất này có thể xác định bằng mắt hoặc bằng tay.
II. PHÂN CHIA TỔN THẤT.
Có hai cách phân chia tổn thất
Nếu căn cứ trên mức độ tổn thất ta có:
+ Tổn thất toàn bộ (Total Loss): gồm tổn thất toàn bộ ước tính và tổn thất toàn bộ thực tế
+ Tổn thất bộ phận (Partial loss)
Nếu căn cứ trên mối quan hệ về mối quan hệ về quyền lợi giữa những người bảo hiểm, ta có:
+ tổn thất riêng (Paticular Average).
+ Tổn thất chung (General average).
1. CĂN CỨ TRÊN MỨC ĐỘ TỔN THẤT
A. TỔN THẤT BỘ PHẬN
Có nghĩa là tổn thất một phần hàng hoặc hàng được bảo hiểm bị giảm giá trị thực tế. Nhiệm vụ xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất của hàng hóa được giao cho giám định viên hàng hóa.
Khi hàng hóa bị tổn thất bộ phận thì tùy theo điều kiện bảo hiểm mà người được bảo hiểm đã mua để xác định được tổn thất bộ phận này có được bồi thường hay không. Tổn thất bộ phận thương tồn tại dưới các dạng sau:
+ Giảm một phần giá trị sử dụng của hàng hóa. Ví dụ bị bột ngấm nước, bị nổi mốc và chua phải làm thức ăn gia súc.
+ Giảm về số lượng như số bao, số kiện bị giao thiếu hay bị nước cuốn trôi.
+ giảm về thể tích rượu, xăng, dầu đựng trong thùng bị rò rỉ ra ngoài.
+ Giảm về trọng lượng như gạo hay bột bị rơi vãi do bao bì bị rách, vỡ...
B. TỔN THẤT TOÀN BỘ (TOTAL LOSS)
Một tổn thất toàn bộ có thể là tổn thất toàn bộ thực tế (An Actual Total Loss) hoặc là tổn thất toàn bộ ước tính (A Constructive Total loss).
· Tổn thất toàn bộ thực tế.
Là khi hàng hóa thực tế tổn thất hoàn toàn, bị tổn thất hoàn toàn và trên thực tế hàng hóa không thể đưa trở lại cho người được bảo hiểm. Cấu thành nên trường hợp tổn thất toàn bộ thực tế của hàng hóa được bảo hiểm có mấy loại sau:
+ Hàng hóa được bảo hiểm bị mất hoàn toàn trong các tai nạn chìm tàu hoặc cháy tàu. Ví dụ như tàu bị chìm sâu dưới đáy biển cùng với hàng hóa trên tàu và không thể nào thu hồi lại được hoặc ví dụ như tàu và hàng bị cháy rụi đến mức hoàn toàn không còn gì.
+ Hàng hóa được bảo hiểm bị hỏng đến nỗi không còn là loại hàng có phẩm chất như ban đầu. Hay nói cách khác đối tượng bảo hiểm đã mất đi giá trị thương mại hoặc công dụng vốn có của nó, người ta còn gọi là “mất phẩm dạng” (Loss of Specie). Ví dụ như bột mỳ bị ẩm ướt, nồi mốc hoàn toàn hoặc trả sau khi gặp rủi ro, tuy không mất đi nhưng khi pha xong không thể uông được
+ Đối tượng bảo hiểm bị hủy hoại toàn bộ
+ Sự mất mát của đối tượng bảo hiểm đã không thể cứu vãn nỏi. Ví dụ tàu bị cướp, bị địch bắt giam,.... tuy bản thân tàu và hàng chưa bị tổn thất nhưng người bảo hiểm sẽ mất đi số tài sản này.
+ Một tàu được công bố là mất tích trong một thời gian nào đó và không nhận được tin tức về tàu ấy.
Trong trường hợp tổn thất toàn bộ thực tế không cần khai báo từ bỏ(No Notice of Abandonment Need to Be Given).
· Tổn thất toàn bộ ước tính (Constructive Loss):
Là những rủi ro dẫn đến hànghoas bị hư hỏng đại bộ phận và đối với đại bộ phận hàng hóa còn lại, muốn cứu vớt hàng hóa chủ hàng phải chi ra một số chi phí bao gồm cả ci phí cứu hàng vaf chi phí thuê tàu đưa hàng về cảng đích ( những chi phái này chắc chắn sẽ phát sinh) mà người chủ hàng có thể tạm ước tính, nếu cộng chung với với số hàng bị hưu hỏng thực tế , nó không tránh khỏi tổn thất toàn bộ.
Do vậy trước khi tiến hành cứu vớt hàng, chủ hàng phải dự kiến được tình hình thực tế đang xảy ra cho hàng hóa. Nếu xét thấy giá trị toàn bộ hàng hỏng cộng với chi phí phát sinh xâp xỉ bằng giá trị bảo hiểm hoặc có khả năng vượt quá giá trị bảo hiểm thì phải báo ngay cho người bảo hiểm, để yêu cầu người bảo hiểm bồi thường tổn thất toàn bộ ước tính.
Cần phải chú ý rằng rủi ro này là do rủi ro làm hỏng hàng hóa đang trong quá trình vận chuyển, hàng hóa đang trên đường đi chứ không phải đã về đến cảng đích. Vì nếu hàng hóa đã về đến cảng đích, có nghĩa là người được bảo hiểm không khai báo từ bỏ hàng thì tổn thất chỉ được coi là tổn thất bộ phận, do đó tổn thất xảy ra bao nhiêu thì bảo hiểm chỉ bồi thường bấy nhiêu. Tuy nhiên trong thực tế nếu tổn thất quá trầm trọng thì bảo hiểm pahir bồi thường toàn bộ.
Sau khi người được bảo hiểm làm văn bản từ bỏ hàng hóa và gửi cho người bảo hiểm về tình hình tổn thất hàng hóa. Nếu người bảo hiểm xét thấy hàng hóa bị tổn thất không nghiêm trọng lắm và có khả năng về đến cảng đích mà chi phí không vượt quá giá trị bảo hiểm thì người bảo hiểm sẽ từ chối việc từ bỏ này, trong trường hợp này tổn thất chỉ được xem là tổn thất bộ phận. Nhưng nếu người bảo hiểm xét thấy tổn thất nghiêm trọng, công ty bảo hiểm sẽ cử người đến nơi xảy ra sự cố hay ủy thác cho đại lý bảo hiểm. Nếu chi phí đi lại này cộng với chi phí hàng bị tổn thất vượt quá số tiền bảo hiểm thì công ty bảo hiểm chấp nhận sự từ bỏ hàng. Mọi sự im lặng của người bảo hiểm (không trả lời) không có nghĩa là bảo hiểm khước từ cũng như chấp nhận. Do đó chủ hàng trong mọi trường hợp chủ hàng không nhận được ý kiến của người bảo hiểm thì chủ hàng phải trở về với nghĩa vụ đối với hàng bị tổn thất. Có nghĩa là phải tiến hành những công tác đề phòng hạn chế tổn thất với các chi phí dự kiến như đã định.
Trong trường hợp này người bảo hiểm sẽ phải bồi thường cho chủ hàng hàng hóa bị tổn thất thực tế cộng với các chi phí đề phòng hạn chế tổn thất và các chi phí liên quan khác. Cho dù tổng só này có vượt quá giá trị bảo hiểm đi chăng nữa thì chủ hàng vẫn có quyền khiếu nại đòi người bảo hiểm bồi thường đầy đủ kể cả phần vượt giá trị bảo hiểm trên cơ sở đã từ bỏ hàng nhưng bảo hiểm không nhận.
Đối với việc từ bỏ hàng mà bảo hiểm đã chấp nhận bồi thường thì chủ hàng không được hồi ý. Cho dù àng hóa này chủ hàng biết rằng có thể bán được giá cao hơn sau khi được bảo hiểm thanh toán bồi thường.
Chú ý: ngay cả khi xảy ra tổn thất toàn bộ ước tính cũng phải chứng minh được nguyên nhân gây ra mới được bảo hiểm chấp nhận bồi thường.
Nói chung trường hợp tổn thất toàn bộ ước tính đòi hỏi người bảo hiểm phải tính toán nhanh nhẹn, chính xác để tuyên bố chấp nhận hoặc không chấp nhận việc từ bỏ hàng một cách kịp thời bởi lẽ nếu càng kéo dài thì tổn thất sẽ càng lớn mà hậu quả cuối cùng vẫn do người bảo hiểm gánh chịu.
· Nguyên tắc từ bỏ hàng: Luật bảo hiểm hàng hải 1906 quy định một số điều như sau:
Khai báo từ bỏ hàng có thể viết bằng tay hoặc bằng miệng hoặc cả hai và có thể khai báo bằng lời lẽ nào đó để tỏ ý đồ của người được bảo hiểm là từ bỏ quyền sỡ hữu của mình trên đối tượng được bảo hiểm với một cách không điều kiện cho người bảo hiểm.
Khai báo từ bỏ phải thi hành một các mẫn cán hợp lý sau khi nhận được tin tức liên quan gì về tổn thất, nhưng khi tổn thất chưa có tính chắc chắn thì người được bảo hiểm được một thời gian để điều tra.
Khi có ý từ bỏ hàng cho người bảo hiểm, chủ hàng phải dựa trên cơ sở là đối với hàng từ bỏ đó, nếu người bảo hiểm chấp nhận vẫn có thể cứu vãn được một hần giá trị hàng hóa từ bỏ. Nếu thực tế nó không còn giá trịi gì và điều chắc chắn là không mang lại lợi ích gì thì chủ hàng không cần khai báo từ bỏ hàng. Lúc đó chỉ cần chứng minh và đòi bảo hiểm bồi thường thực tế 100%.
2. CĂN CỨ TRÊN MỐI LIÊN QUAN VỀ QUYỀN LỢI GIỮA NHỮNG NGƯỜI BẢO HIỂM
A. TỔN THẤT RIÊNG ( PARTICULAR AVERAGE)
Tổn thất riêng là tổn thất chỉ liên quan đến quyền lợi riêng của chủ hàng đối với hàng hóa bị hư hỏng và mất mát đó. Rủi ro gây nên tổn thất riêng là những rủi ro có tính bất ngờ ngẫu nhiên và nó xảy ra cho ai thì người đó pải chịu.
Nếu tổn thất riêng thuộc trách nhiệm của người bảo hiểm thì người bảo hiểm phải bồi thường (nếu chủ hàng có mua bảo hiểm).
Nếu tổn thất riêng do lỗi của người chuyên chở và thuộc trách nhiệm của người bảo hiểm ( người chủ hàng có mua bảo hiểm) thì người bảo hiểm sẽ bồi thường cho chủ hàng và sau đó thế quyền của chủ hàng đòi lại người chuyên chở.
Trong mọi trường hợp, theo luật bảo hiểm của Anh, hàng hóa bị tổn thất riêng phải có nguyên nhân trực tiếp hoặc có lý do hợp lý.
Ví dụ: Trong một chuyến hành trình, một hầm tàu chứa bông bị phát hỏa. Ngọn lửa cháy lan sang hầm chứa máy cassette của một chủ hàng khác làm cho hàng bị hư hỏng 30%. Cả hai trường hợp cháy hàng này đều ngẫu nhiên xảy ra và rủi ro bất ngờ này gây ra tổn thất được xác định là tổn thất riêng. Trên nguyên tắc rủi ro cháy thuộc trác nhiệm của người bảo hiểm nếu cả hai chủ hàng này có mua bảo hiểm. Tuy nhiên lô hàng bông có tính tự bốc cháy, qua công tác giám định chứng minh được nguyên nhân cháy này là do bản chất dễ cháy của nó gây ra, thì bảo hiểm lại có trách nhiệm không bồi thường, vì đó là một trong nững rủi ro laoij trừ bảo hiểm. Như vậy người bảo hiểm chỉ chịu trác nhiệm bồi thường lô hàng cassette mà thôi.
· Cần đảm bảo tổn thất riêng (Particular Average Warranties)
Trong luật hàng hải 1906 có quy định rõ:
Khi mua bảo hiểm theo điều kiện FPA tức là miễn bảo hiểm tổn thất riêng thì người được bảo hiểm không thể đòi bồi thường về tổn thất bộ phận, ngoài tổn thất gây ra bởi tổn thất chung ( nhưng nếu trong hành trình có sự mắc cạn, đâm va, chìm cháy thì lại bồi thường).
Khi đối tượng bảo hiểm đực đảm bảo không bồi thường tổn thất riêng thì người bảo hiểm thì người bảo hiểm vẫn phải chịu về chi phí cứu nạn, chi phí riêng và các chi phí khác đã đực chi trả đúng mức chiếu theo các quy định của điều khoản tố tụng và đề phòng tổn thất. (The Suing and Laboring Clause) để tránh một tổn thất được bảo hiểm ngoặc ngăn chặn thị trường gia tăng.
Trừ khi đơn bảo hiểm được quy định khác, khi đối tượng của bảo hiểm đảm bảo không bồi thường tổn hại riêng dưới một tỷ lệ được ấn định thì một tổn thất chung không thể được cộng vào một tổn thất với tổn thất riêng để nâng tới tỷ lệ ấn định đó.
Để xác định tỷ lệ ấn định có đạt tới hay không thì chỉ có thể dựa trên tổn thất thật sự mà đối tượng bảo hiểm phải gánh chịu. Chi phí riêng và các chi phí xác định hay do xác định mà có hay để chứng minh tổn thất phải dược lại trừ
B. TỔN THẤT CHUNG (GENERAL AVERAGE)
Trong một chuyến hành trình thường xảy ra các tai nạn lớn như đâm va, chìm cháy, mắc cạn....Khi gặp các tai nạn này cả tàu và hàng ht]ơngf có nguy cơ tổn thất toàn bộ. Để cứu nguy chung cho tàu và hàng, thuyền trưởng phải theo quy định dùng mọi biện pháp để cứu nguy. Hành động hy sinh một cách cố ý này có thể dẫn tới tổn thất một số hàng hóa của môt số chủ hàng hoặc cả vật chất hoặc một số chi phí khác nhằm mục đích an toàn chung cho tàu và hàng. Chúng ta phân biệt hai khái niệm tổn thất chung.
· Hi sinh tổn thất chung: là những thiệt hại về vật chất của tàu và hàng và thiệt hại về cước phí của người chuyên chở do hành động vì tổn thất chung gây nên (hàng hóa bị vứt xuống biển, hàng bị ướt do hành động chữa cháy...)
· Chi phí tổn thất chung: là những chi phí được chi ra do người thứ 3 do hành vi tổn thất chung gây nên để cứu nguy cho tàu và hàng ( ví dụ như chi phí cứu hộ, dỡ hàng, lưu ko, giám định......)
Để bảo vệ quyền lợi chung, những hi sinh tổn thất chung và chi phí tổn thất chung sẽ do chủ tàu và các chủ hàng tính toán đóng góp theo tỷ lệ sau khi tính toán.
Người bảo hiểm có trách nhiệm về những hi sinh tổn thất chung đối với một phần hoặc toàn bộ tài sản được bảo hiểm kể cả những đóng góp phân bổ tổn thất chung do người bảo hiểm đóng góp cho tàu, nhưng chỉ liên quan đến hàng hóa an toàn khi về bến.
Như vậy trường ợp có tổn thất chung, tuy hàng hóa không bị tổn thất chủ hàng vẫn phải đóng góp cho tổn thất chung nếu xảy ra trong chuyến hành trình. Nếu chủ hàng có mua bảo hiểm thì người bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm đóng thay cho chủ hàng khoản đóng góp này. Đây cũng là lợi ích của chủ hàng khi mua bảo hiểm.
Các yếu tố cần thiết để tuyên bố tổn thất chung:
Một tổn thất được coi là tổn thất chung để có yêu cầu tất cả các bên liên quan tham gia đóng góp bồi thường phải đủ ba yếu tố:
+ Phải có hiểm nguy chắc chắn xảy ra như bão tố sóng thần,... đặt tàu vào tình trạng nguy hiểm.
+ Khi thực hiện các biện pháp để tránh hiểm nguy, phải có sự cố ý hi sinh, nghĩa là thuyền trưởng phải có ý định hi sinh để cứu vãn “cộng đồng quyền lợi”.
Các hi sinh cụ thể như:
- Vứt bỏ một số hàng xuống biển để làm nhe tàu, giúp tàu nổi lên.
- Gia tăng sức máy quá mức để thoát qua cơn bão tố hoặc ra khỏi nơi mắc cạn .
- Tưới nước vào một hay nhiều hầm tàu để dập tắt ngọn lửa.
- Kêu tàu kéo trợ giúp để đưa tàu ra khỏi nơi mắc cạn hoặc để kéo tàu về nơi an toàn.
- Ghé vào bến cảng để ẩn nấp hay để sửa chữa hay xếp lại hàng hóa bị xô đẩy...
+ Sự hi sinh đó phải có lợi, có nghĩa là phải cứu vãn được cộng đồng quyền lợi
Khi cả hai yếu tố trên hội đủ, thuyền trưởng có thể tuyên bố tổn thất chung.
Giải quyết tổn thất chung:
Sau khi tuyên bố tổn thất chung, thuyền trưởng tiến hành làm những thủ tục sau:
+ Thiết lập giá trị khi về đến bến của các thành phần trong ”cộng đồng quyền lợi” (khối được cứu vãn).
+ Trị giá tàu trong trạng thái lúc về tới bến, tức là sai biệt giữa trị giá trước các biến cố và phí tổn sửa chữa các tổn hại sau biến cố
+ Trị giá các lô hàng còn tốt không bị tổn thất nào.
+ Thiết lập trị giá các quyền lợi bị hi sinh (khối bị hi sinh). Nếu là tàu: chi phí sữa chữa cần thiết, các phần hoặc các bộ máy bị hi sinh và phí tổn cập bến bao gòm cả lương thực và tiền ăn của thủy thủ, dầu nhớt, nước....trong suốt thời gian lưu bến. Chú ý: các tổn thất riêng không đực tính vào các giá trị này. Nếu là hàng hóa: trị giá các tổn hại và các giá trị đã hi sinh.
+ Đề cử một trọng tài để thiết lập các trị giá đóng góp và các trị gia hi sinh rồi phân phối trên nguyên tắc khối được cứu vãn phải đóng góp theo tỷ lệ trên mỗi giá trị cứu vãn dược, cho đủ khoản các giá trị đã hi sinh.
Khối được cứu vãn do đó được coi là “khối đóng góp”. Khoản góp được chia trả cho mỗi phần bị hi sinh thuộc “khối lượng đền bù” theo tỷ lệ giá trị hi sinh. Có nghĩa là tất cả mọi quyền lợi đều chịu cùng tỷ lệ đóng góp như nhau.
Thông thường công việc của giám định viên rất lâu và phức tạp nhất là khi có nhiều lô hàng bị tổn thất. Nên để năm phần chắc, các hãng tàu thường buộc các chủ hàng phải đóng góp tạm thời khi giao hàng.
Sau khi các giám định viên thiết lập xong bảng thanh toán tổn thất chung và có phần đóng góp thật sự thì số đã đóng góp tạm thời sẽ đc điều chỉnh.
Ví dụ: trong một chuyến hành trình tàu gặp sự cố nghiêm trọng có nguy cơ làm tổn thất cả tàu lẫn hàng. Trước sự việc này, thuyền trưởng uyết định hi sinh một số hàng hóa của các chủ hàng để cứu thoát tàu ra khỏi nơi nguy hiểm. Đây là hành động tổn thất chung. Các tổn thất được tính như sau:
Trị giá tàu trước sự cố 100.000.000 USD
Trị giá hàng trước sự cố 80.000.000 USD
Cộng đồng tài sản 180.000.000 USD
Khối được cứu vãn:
Trị giá tàu lúc về bến: 100.000.000 USD
Trị giá hàng được cứu vãn 50.000.000 USD
Khối đóng góp 150.000.000 USD
Khối bị hi sinh
Trị giá tàu bị hi sinh 0
Trị giá hàng bị hi sinh 30.000.000 USD
Khối được đền bù 30.000.000 USD
Như vậy khối đóng góp phải trả cho khối được đền bù một khoản là:
Tỷ lệ đóng góp tổn thất chung: c= GA/V
Trong đó:
- c: tỷ lệ đóng góp tổn thất chung.
- GA: giá trị tổn thất chung ( giá trị hàng hóa bị hi sinh).
- V giá trị cộng đồng tài sản.
Như vậy, ta có c= 30.000.000 / 180.000.000 = 17%
Cộng đồng tài sản 17% này là phần đồng góp tổn thất chung. Như vậy chủ tàu phải đóng 17%, tức 17% giá trị tau flaf 17.000.000 USD mặc dù tàu không bị tổn thất nào. Nhưng nếu chủ tàu có mua bảo hiểm thì người bảo hiểm sẽ chịu trác nhiệm bồi thường cho chủ tàu khoản đóng góp này. Sự kiện này chứng minh lợi ích của việc bảo hiểm rủi ro tổn thất chung.
C. PHÂN BIỆT SỰ KHÁC NHAU GIỮA TỔN THẤT RIÊNG VÀ TỔN THẤT CHUNG
Đặc điểm
Tổn thất chung (G/A)
Tỏn thất riêng (P/A)
Nguyên nhân dẫn đến tổn thất
Do hành động cố ý hy sinh của con người
Do sự cố ngãu nhiên bất ngờ
Đóng góp tổn thất
Mọi người có quyền lợi trong mọi chuyến đi đều phải tham gia
Rủi ro vào ai thì người đó phải chịu
Trách nhiệm người bảo hiểm
Bồi thường ngay không xét điều kiện mua bảo hiểm
Tùy thuộc vào rủi ro trong điều kiện bảo hiểm
D. VÍ DỤ CỤ THỂ PHÂN BIỆT TỔN THẤT RIÊNG VÀ TỔN THÂT CHUNG
Ví dụ 1:
Trong một chuyến hành trình có 4 chủ hàng gửi hàng trên tàu;
Tổng giá trị hàng hóa của 4 chủ hàng: 800.000 USD
Trong đó: chủ hàng A : 200.000 USD
Chủ hàng B: 300.000 USD
Chủ hàng C: 100.000 USD
Chủ hàng D: 200.000 USD
Trị giá con tàu của chủ tàu là: 2.000.000 USD.
Tổng cộng tài sản là: 2.800.000 USD
· Trường hợp 1:
Mặt hàng vải của chủ hàng A bị cháy thiệt hại hàng hóa ước tính là 150.000 USD. Đây là rủi ro bất ngờ, do đó tổn thất này là tổn thất riêng, chủ hàng A phải chịu.
Ngọn lửa cháy sang phòng máy làm tàu bị thiệt hại 50.000 USD. Đây cũng là tổn thất riêng chủ tàu phải chịu.
Để cứu nguy chung cho cả tàu và hàng, thuyền trưởng đã cân nhắc thật kỹ là phải dung nước dập tắt ngọn lửa ( đây là hành động d ý chí hi sinh của thuyền trưởng, bởi lẽ thuyền trưởng biết trước được hậu quả của việc dùng nước dập tắt lửa sẽ làm hỏng một số hàng nhưng vẫn phải làm). Việc dập tắt này làm cho một số hàng hóa của chủ hàng khác bị hư hỏng. Thiệt hại ước tính 260.000USD. Sau khi dập tắt lửa hàng vẫn về cảng an toàn. Như vậy, tổn thất 260.000USD là tổn thất chung mà tất cả các chủ hàng chủ tàu đều phải chia sẻ. Tỷ lệ đóng góp được xác định là:
Tổn thất chung: 2600.000 USD.
Cộng đồng tài sản - tổn thất riêng:
2.800.00 USD – (150.000 + 50.000) = 2.600.000 USD
Như vậy, mỗi chủ hàng và tàu đêu fphair đóng góp 10% trị giá được cứu vãn. Số tiền đóng góp này, chủ tàu sẽ đền bù lại cho các chủ hàng có hàng hóa bị tổn thất do hành động tổn thất chung sau khi họ đã đóng góp tổn thất chung.
· Trường hợp 2
Nếu sau khi dập tắt ngọn lửa, tàu không thể chạy được nữa. Để cứu nguy
tàu khỏi bị chìm, chủ tàu quyết định thuê tàu khác kéo tàu về cảng, chi phái cứu hộ là 20.000 USD. Chi phí này cũng là tổn thất chung. Như vậy trong trường hơpJ này tổn thất chung sẽ là: 260.000 + 20.000 = 280.000 USD. Và tỷ lệ đóng góp sẽ khác đi là: 280.000 / 260.000 = 12.5% trị giá được cứu vãn.
Ví dụ 2:
Trong chuyến hành trình, tàu bị đâm va và thủng 1 lỗ. Do đó nước tràn vào tàu và có nguy cơ làm ướt hàng hóa. Trước tình hình đó chủ tàu ra lệnh phải láp lỗ thủng bằng bất cứ vật gì có thể. Thủy thủ liền lấp lỗ thủng bằng vài bao hàng của một chủ hàng. Sau đó tàu về đến cảng: Chi phí sữa chữa tàu (hàn lỗ thủng) ước tính là 5.000 USD. Tổn thất hàng hóa dùng để lấp lỗ thủng là 20.000 USD. Như vậy tàu chỉ thủng một cách ngẫu nhiên và bất ngờ nên đây là tổn thất riêng. Do đó chi phí tàu sửa chữa 5.000USD do chủ tàu tự chịu. Tổn thất chung 20.000 USD là nhằm cứu nguy cho hàng hóa trên tàu sẽ do các chủ hàng khác và chủ tàu đóng góp đền bù cho chủ hàng có hàng hóa bị tổn thất chung (sau khi đã trừ đi khoản phải đóng góp tổn thất chung của chính chủ hàng này).